Thứ Bảy, 11 tháng 10, 2008

Nhận định đau _ người bệnh thoát vị đĩa đệm cột sống cổ

Thoát vị đĩa đệm cột sống cổ cùng với hội chứng đau các rễ thần kinh đều có nguồn gốc cơ bản do thoái hóa đĩa đệm - cột sống cổ, thường được gọi chung là “Hội chứng cổ - cánh tay”.

Thoát vị đĩa đệm cột sống cổ tuy có tỷ lệ thấp hơn thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng nhưng lại đóng vai trò rất hệ trọng vì nó trực tiếp uy hiếp tủy sống cổ và chẹn đường đi của hệ động mạch đốt sống - thân nền bảo đảm nuôi dưỡng não bộ (đại não, tiểu não...). Không những thế, hệ thần kinh thực vật ở vùng này lại được phân bố rất phong phú và tiếp xúc rất khăng khít với hệ động mạch sống - nền bởi hai chuỗi hạch giao cảm cổ cũng bị tác động.

Sau đây là một số biểu hiện thường gặp do thoát vị đĩa đệm cột sống cổ

Hội chứng cổ - cánh tay là gì?

Hội chứng cổ - cánh tay là hội chứng đau do đĩa đệm của đoạn cột sống cổ đoạn C5-C7, có đặc điểm là đau và rối loạn cảm giác khởi phát từ cột sống cổ lan tới chi trên, ít nhiều mang tính chất phân bố thần kinh theo dải. Phần lớn có kèm các triệu chứng của hội chứng cổ cục bộ. Tùy theo phần nào của nhánh thần kinh bị xâm phạm mà có những biểu hiện đau, rối loạn cảm giác và vận động tương ứng. Ở giai đoạn đầu, xuất hiện các triệu chứng pha trộn đau gáy với sai lệch tư thế. Trên cơ sở của đau lan theo dọc dải da bị xâm phạm, đồng thời cũng xuất hiện rối loạn cảm giác ở vùng này. Trường hợp có chèn ép lớn thì bị giảm cảm giác nông (cảm giác tê bì) theo dải da, còn phần lớn khi các nhánh, rễ thần kinh bị kích thích lại thấy biểu hiện vùng dải da tăng cảm giác nông.

Người bệnh có cảm giác căng và sưng bàn tay, mà khách quan không thể nhận biết được, lại thường kèm theo tím tái đầu chi và lạnh chân tay, chứng tỏ có thêm rối loạn thần kinh giao cảm. Có thể hạn chế vận động vai, nhưng không phải là do viêm quanh khớp bả vai - cánh tay.

Teo cơ thường phát hiện thấy ở khu vực trên vai, cơ Delta và các cơ thuộc khu vực cánh tay, cẳng tay, có khi cả ở bàn tay, tùy theo phạm vi và mức độ tổn thương. Hội chứng cổ - cánh tay có thể xuất hiện theo nhiều kiểu. Hội chứng cổ - cánh tay thường do thoát vị đĩa đệm cột sống cổ (loại mềm) và do cấu trúc xương (chồi xương do thoái hóa) của mỏm móc của đốt sống (còn được gọi là “thoát vị cứng”).

Đau cánh tay do lồi và thoát vị đĩa đệm

Lồi đĩa đệm hay thoát vị đĩa đệm cổ là do một tác nhân gây chèn ép “mềm” các rễ thần kinh, ít gặp hơn so với cùng loại ở cột sống thắt lưng. Lồi đĩa đệm cổ thường gặp ở vị trí sau - bên chèn ép rễ thần kinh, gây đau, tư thế sai lệch cột sống cổ và những thiếu hụt thần kinh. Lồi đĩa đệm là do vòng sợi bị nhân nhầy trồi ra ở điểm yếu nhất làm rách đứt một số lớp của vòng sợi, tức là vòng sợi chưa bị chọc thủng hoàn toàn. Trên cơ sở của thoái hóa đĩa đệm, lồi đĩa đệm kéo dài, vòng sợi đĩa đệm đã bị suy yếu dưới tác động của tải trọng quá nặng, không cân đối, hay do tư thế vận động cột sống cổ bất lợi, vượt quá giới hạn của trường - vận động hoặc chấn thương nhân nhầy chọc thủng vòng sợi và thoát ra ngoài khoang đĩa, gây thoát vị đĩa đệm cổ. Do sức căng phồng của đĩa đệm ở người trẻ chưa bị suy giảm như ở người cao tuổi nên thoát vị đĩa đệm thường xảy ra ở tuổi 30-45. Các triệu chứng xuất hiện cấp tính: đau cánh tay theo dải da thuộc vùng rễ thần kinh bị xâm phạm, tư thế sai lệch mạnh mẽ của đầu và cột sống cổ bao giờ cũng ở tư thế gù. Ho, hắt hơi đều làm đau tăng lên. Chỉ có chụp tủy cổ hay chụp cắt lớp vi tính, chụp cộng hưởng từ mới xác định chẩn đoán chính xác thoát vị đĩa đệm.

Đau cánh tay do chồi xương ở mỏm móc

Do đặc điểm sinh - cơ học của đĩa đệm cột sống, quá trình thoái hóa theo tuổi phát triển dần dần, tới tuổi 50 thì đã hình thành các gai xương ở thân đốt và chồi xương ở mỏm móc. Trong quãng tuổi đời đó nếu có các yếu tố ngoại lai (chấn thương, viêm nhiễm, tư thế bất lợi không sinh lý do nghề nghiệp hay phong cách sinh hoạt, thì sẽ làm tăng tốc độ thoái hóa, thậm chí cột sống cổ nhiều em ở tuổi thiếu niên đã có biểu hiện thoái hóa nặng nề trên phim Xquang. Điều đó nói lên vai trò quan trọng của dự phòng bệnh lý cột sống cổ.

Trên lâm sàng, đau cánh tay do kích thích rễ thần kinh bởi chồi xương ở mỏm móc thường gặp nhiều hơn là do thoát vị đĩa đệm. Chồi xương mỏm móc chĩa vào lỗ liên đốt gây hẹp lòng lỗ liên đốt còn xơ hóa đĩa đệm hạn chế biên độ vận động cột sống cổ thì chưa có biểu hiện các triệu chứng của hội chứng cổ - cánh tay.

Sự phối hợp của hai yếu tố lỏng lẻo đoạn vận động cột sống cổ với các gai xương là nguồn gốc phát sinh hội chứng lâm sàng đồng thời cũng là mục tiêu giải quyết của các biện pháp dự phòng và điều trị hội chứng cổ - cánh tay. Ở đây, các triệu chứng xuất hiện từ từ và không mạnh mẽ như trong lồi và thoát vị đĩa đệm. Biểu hiện đau về đêm, cảm giác kiến bò và tê bì dải da tương ứng thuộc các rễ thần kinh bị xâm phạm nên còn mang thuật ngữ “chứng đau cánh tay về đêm”.

Ngoài ra, ở đoạn cột sống cổ, tùy theo mức độ của tác nhân gây bệnh vào các rễ thần kinh tủy cổ (kích thích, chèn ép) sẽ xuất hiện hội chứng đau rễ thần kinh - một rễ hoặc nhiều rễ, phần lớn ở một bên, có khi ở cả hai bên.

Điều trị như thế nào?

Điều trị chung: Các biện pháp giảm đau và chống viêm (thuốc, châm cứu, xoa bóp nhẹ nhàng vùng cổ và tay); các loại thuốc an thần, trấn tĩnh thần kinh và thư giãn cơ; các loại thuốc hoạt huyết và chống thoái hóa thần kinh.

Điều trị theo nguyên nhân là chủ yếu: Các hội chứng bệnh lý này đều do cơ chế bệnh sinh cơ học. Do đó tùy theo tác nhân gây bệnh (loại cứng hay mềm), mức độ gây tổn thương (kích thích hay chèn ép) và tính chất nguy hại của cơ quan hay các thành phần liên quan (tủy sống, động mạch sống hay các rễ thần kinh) để có biện pháp điều trị thích hợp.

Nếu chỉ là kích thích hay chèn ép nhẹ thì điều trị bảo tồn là chủ yếu: giai đoạn đau cấp tính thì phải cho bất động cột sống cổ bằng đai cổ. Sau đó nếu cần thì kéo giãn cột sống cổ kết hợp với đai cổ.

Nếu chèn ép nặng vào tủy sống cổ và mạch máu thần kinh thì phải can thiệp phẫu thuật giải phóng bộ phận bị chèn ép càng sớm càng tốt. Trước khi chỉ định kéo giãn cột sống cổ phải chụp Xquang để loại trừ các loại bệnh lý khác của cột sống - tủy sống. Trước khi phẫu thuật, bệnh nhân cần được chụp cắt lớp vi tính hay cộng hưởng từ.

Điều trị phục hồi chức năng và dự phòng tái phát

Sau khi bệnh đã được xử trí cơ bản, cần tiếp tục liệu trình điều trị phục hồi chức năng (vật lý trị liệu, xoa bóp, vận động liệu pháp) tại cơ sở chuyên khoa. Để dự phòng tái phát cần sinh hoạt hợp lý, xác định ngành nghề thích hợp, tránh chấn thương vào đầu và cổ. Khi phải sử dụng cột sống cổ trong thơi gian dài cần đeo đai cổ.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét